Open navigation

Công văn 5023/TCHQ-GSQL ngày 27/09/2023 Vướng mắc về hàng hóa xuất nhập khẩu thuộc quản lý của Bộ Thông tin và Truyền thông

BỘ TÀI CHÍNH
TỔNG CỤC HẢI QUAN
 -------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 5023/TCHQ-GSQL

V/v vướng mắc về hàng hóa XNK thuộc quản lý của Bộ Thông tin và Truyền thông

Hà Nội, ngày 27 tháng 9 năm 2023

 Kính gửi: Bộ Thông tin và Truyền thông.

Trong quá trình thực hiện thủ tục hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu là sản phẩm an toàn thông tin mạng (ATTTM) và sản phẩm mật mã dân sự (MMDS) theo quy định tại Luật An toàn thông tin mạng, Tổng cục Hải quan ghi nhận vướng mắc phát sinh, xin trao đổi với quý Bộ như sau:

1. Theo quy định tại Luật An toàn thông tin mạng thì sản phẩm ATTTM và MMDS là hàng hóa nhập khẩu theo giấy phép; cụ thể Bộ Quốc phòng (Ban cơ yếu Chính phủ) thực hiện cấp phép đối với sản phẩm MMDS và Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện cấp phép đối với sản phẩm ATTTM.

Danh mục sản phẩm MMDS xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép được quy định tại Phụ lục ban hành kèm Nghị định số 58/2016/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung Nghị định số 32/2023/NĐ-CP ngày 09/6/2023) quy định chi tiết về kinh doanh sản phẩm, dịch vụ mật mã dân sự và xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm mật mã dân sự.

Danh mục sản phẩm ATTTM nhập khẩu theo giấy phép được quy định tại Phụ lục I ban hành kèm Thông tư số 13/2018/TT-BTTTT ngày 15/10/2018 của Bộ Thông tin và Truyền thông (được sửa đổi bổ sung, tại Thông tư 10/2022/TT-BTTTT ngày 20/7/2022) quy định Danh mục sản phẩm an toàn thông tin mạng nhập khẩu theo giấy phép và trình tự, thủ tục, hồ sơ cấp Giấy phép nhập khẩu sản phẩm an toàn thông tin mạng.

2. Qua triển khai thực tế, Tổng cục Hải quan ghi nhận một số sản phẩm vừa thuộc Danh mục sản phẩm MMDS xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép vừa thuộc Danh mục sản phẩm ATTTM nhập khẩu nêu trên. Về vấn đề này, tại dự thảo Hồ sơ đề nghị xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 58/2016/NĐ-CP ngày 1/7/2016 quy định chi tiết về kinh doanh sản phẩm, dịch vụ mật mã dân sự và xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm mật mã dân sự, Bộ Quốc phòng cũng đã nêu tình trạng chồng chéo nêu trên, dẫn đến việc doanh nghiệp phải thực hiện thủ tục cấp phép kinh doanh, giấy phép xuất nhập khẩu của hai cơ quan là Bộ Thông tin và Truyền thông và Ban Cơ yếu Chính phủ; theo đó, Bộ Quốc phòng đề xuất sẽ rà soát, quy định danh mục các sản phẩm MMDS để tránh việc quản lý, cấp phép chồng chéo các sản phẩm an toàn thông tin mạng và sản phẩm MMDS.

Bộ Tài chính đã có công văn số 8043/BTC-TCHQ ngày 31/7/2023 tham gia và nhất trí với đề xuất nêu trên của Bộ Quốc phòng để phù hợp tinh thần cải cách của Chính phủ tại Nghị quyết số 19-2018/NQ-CP ngày 15/5/2018 về thủ tục kiểm tra chuyên ngành theo hướng đối với một mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu chỉ do một bộ, cơ quan chịu trách nhiệm quản lý.

3. Tại công văn số 589/CATTT-PCKT ngày 25/4/2023. Cục An toàn thông tin mạng (Bộ Thông tin và Truyền thông) đề nghị cơ quan hải quan: "hướng dẫn các đơn vị liên quan thực hiện phương án áp dụng Thông tư số 10 đối với các sản phẩm có kê khai: mã HS, mô tả hàng hóa và mô tả chức năng an toàn thông tin mạng được ban hành tại Danh mục (các sản phẩm không có chức năng chính về an toàn thông tin mạng không được xem là sản phẩm an toàn thông tin mạng và không thuộc phạm vi áp dụng của Thông tư số 10)".

Tuy nhiên, việc xác định 01 mặt hàng có chức năng chính là MMDS hay ATTTM theo hướng dẫn trên là vượt thẩm quyền và khả năng chuyên môn của cơ quan hải quan. Do vậy, trước mắt để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, giải quyết vướng mắc chồng chéo trong việc cấp giấy phép nêu trên, Tổng cục Hải quan dự kiến chỉ đạo Cục Hải quan các tỉnh, thành phố thực hiện theo hướng hướng dẫn người khai hải quan căn cứ Phụ lục ban hành kèm Nghị định số 58/2016/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung Nghị định số 32/2023/NĐ-CP ngày 09/6/2023) và Phụ lục I Thông tư số 13/2018/TT-BTTTT ngày 15/10/2018 của Bộ Thông tin và Truyền thông (được sửa đổi bổ sung, tại Thông tư 10/2022/TT-BTTTT ngày 20/7/2022) đối chiếu thực tế hàng hóa để khai báo mô tả chức năng MMDS và ATTTM liên quan; trong đó ghi rõ chức năng chính của sản phẩm trong số các chức năng được liệt kê.

Cơ quan hải quan căn cứ khai báo trên tờ khai hải quan để thực hiện thủ tục thông quan, cụ thể: trường hợp doanh nghiệp khai báo sản phẩm có chức năng chính về ATTTM thì yêu cầu nộp cho Giấy phép nhập khẩu sản phẩm an toàn thông tin mạng do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp; trường hợp khai báo sản phẩm có chức năng chính về MMDS thì yêu cầu nộp Giấy phép nhập khẩu sản phẩm mật mã dân sự do Ban Cơ yếu Chính phủ cấp. Doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm trong việc xác định chức năng chính của sản phẩm để khai báo và nhập khẩu mặt hàng đúng quy định.

Về lâu dài để đảm bảo việc kiểm soát khai báo của doanh nghiệp phù hợp với thực tế hàng hóa, Tổng cục Hải quan kiến nghị Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp Ban Cơ yếu Chính phủ thực hiện:

(i) Xây dựng tiêu chí kỹ thuật cụ thể để có thể xác định đúng bản chất mặt hàng là sản phẩm MMDS hay ATTTM.

ii) Chỉ định danh sách tổ chức giám định có khả năng thực hiện phân loại sản phẩm an toàn thông tin mạng và mật mã dân sự, xác định cụ thể bản chất mặt hàng để các đơn vị liên quan có cơ sở đối chiếu kết quả thực hiện. Trong trường hợp phát sinh nghi ngờ hoặc tranh cãi về việc xác định hàng hóa là sản phẩm MMDS hay ATTTM hoặc không phải sản phẩm có chứa đựng các chức năng trên, cơ quan hải quan đối chiếu kết luận của tổ chức giám định để xem xét quyết định việc áp dụng chính sách quản lý tương ứng.

Trên đây là ý kiến của Tổng cục Hải quan, xin trao đổi và mong sớm nhận được ý kiến của Quý Bộ.

Trân trọng cảm ơn./.

 
Nơi nhận:
- Như trên;
- TCT Nguyễn Văn Cẩn (để b/c);
 - Lưu: VT, GSQL (3b).

KT. TỔNG CỤC TRƯỞNG
PHÓ TỔNG CỤC TRƯỞNG




 Nguyễn Văn Thọ

 

Tải về văn bản (file PDF):

Câu trả lời này có giúp ích cho bạn không? Yes No

Send feedback
Rất tiếc là chúng tôi không giúp được nhiều. Hãy giúp chúng tôi cải thiện bài viết này bằng phản hồi của bạn.